Bạn thấy có vẻ như là “は” và “が” có thể dùng thay thế cho nhau mà ý nghĩa không thay đổi và người nghe vẫn hiểu được. Quả thật là người nghe sẽ hiểu, bởi vì thực ra nếu bạn lược bỏ bớt trợ từ thì dựa vào nội dung người nghe vẫn phán đoán được nội dung nhưng bạn sẽ SAI. Ví dụ, bạn biết hai câu sau khác nhau như thế nào không?
1. 私 はりんご を食べました。
2. 私 が りんご を食べました。
Hai câu trên có vẻ như có cùng ý nghĩa, nhưng thực ra không phải. Câu (1) là câu ĐÚNG, nó là một CÂU KỂ. Còn câu (2) nếu đứng đơn độc thì là một câu SAI, câu (2) CHỈ CÓ THỂ LÀ CÂU TRẢ LỜI cho một câu hỏi về chủ thể.
彼女は素敵ですね。
Cô ấy thật tuyệt nhỉ.
イナゴ は稲田を飛んでいます。
Cào cào đang bay qua ruộng lúa.
Xin lỗi vì đã làm phiền mọi người!
2. 私 が りんご を食べました。
Thực ra câu (1) là câu kể lại sự kiện, còn (2) không phải là câu đứng một mình.
Nó là Câu trả lời cho câu hỏi:
誰がりんご を食べましたか?
Ai đã ăn táo?
私がりんご を食べました。
Là tôi đã ăn táo.
(Ví dụ 1)
Nagazuki: Hay nhỉ.
すいかちゃん:何が面白いですか?
Suika-chan: Cái gì hay ạ?
ナガズキ:その看板が。
Nagazuki: Tấm bảng đó đó.
Ai là bé Dưa Hấu?
– その子がすいかちゃんですよ。
Cô bé kia là Dưa Hấu đó.
(Ví dụ 3)
– 何がいいの?
Cái gì thì được?
– リンゴ がいいよ。
Táo thì được đấy.
Đến đây có lẽ bạn đã thấy sự khác nhau về CHỨC NĂNG NGỮ PHÁP của “は” và “が”. “wa” và “ga” còn các chức năng ngữ pháp khác mà tôi sẽ nói với bạn ở dưới đây.
Xin lỗi vì đã làm phiền mọi người!
Cào cào chiên ngon thiệt.
Sài Gòn là một trong những thành phố hoa lệ trên thế giới.
Nhân dân là những người làm nên lịch sử.
Việc anh ta đã làm
すいかちゃんが書いた手紙
Thư bé Dưa Hấu viết
踊り子が踊った踊り
Điệu nhảy vũ công nhảy
彼女がくれたもの
Những thứ cô ấy đưa cho tôi
顔立ちがきれいな女性
Những phụ nữ có gương mặt đẹp
Câu này là một câu đúng, và là một câu KỂ SỰ KIỆN, nhưng lại dùng “が“??
Thực ra, nếu bạn dịch là: Anh ấy biết việc đã làm.
Thì bạn đã không hiểu ý nghĩa câu trên. Câu này thực ra phải dịch là:
Tôi biết việc anh ta đã làm.
Bởi vì, trong câu tiếng Nhật, chủ ngữ (“tôi“) đã được ẩn đi. Câu đầy đủ của câu trên là:
私は彼がしたこと を知っています。
Do đó bạn có thể thấy 彼がしたこと chỉ là một vế câu, nó tạo nên một cụm có tính chất danh từ, làm đối tượng cho hành động “biết” của chủ thể “tôi” (mà đã được ẩn đi).
Bạn có thể thấy ngữ pháp của câu như sau:
(Chủ thể ẩn) [vế câu làm đối tượng của hành động] を [hành động]
Do đó chúng ta nên nhớ theo cách sau:
Xin lỗi vì đã làm phiền mọi người!
Ví dụ:
Cố ấy cơ thể rất gọn gàng.
彼は頭がいい。
Anh ấy rất thông minh.
頭が痛い。
Tôi đau đầu quá.
(=私は頭が痛い)
この布は模様がいいですね。
Tấm vải này hoa văn đẹp nhỉ.
日本への旅行は料金が高い。
Du lịch Nhật Bản mắc tiền.
彼は故郷が大地震に遭ったこと を知っていますか。
Anh ấy có biết việc quê nhà gặp động đất lớn không?
あなたは態度が失礼だ。
Anh thái độ thật vô lễ.
Tôi biết cô ấy là một người phụ nữ đẹp đấy.
(=私は、彼女が美人であること を、知っていますよ。)
サイゴン の雨が ロマンチック なこと を知りませんでした。
Tôi đã không biết là mưa Sài Gòn thật lãng mạn.
ご飯を炊くことができます。
Tôi có thể nấu cơm.
(=私はご飯を炊くことができます。)
この歌が歌えます。
Tôi có thể hát bài này.
(=私はこの歌が歌えます。)
彼女はご飯が炊けません。
Cô ấy không biết nấu cơm. (Không ẩn chủ ngữ)
Xin lỗi vì đã làm phiền mọi người!